Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

Hướng dẫn cách bài trí Tỳ hưu trong nhà đúng phong thủy

Muốn Tỳ Hưu có tác dụng tốt và linh nghiệm thì Tỳ Hưu phải được tạc bằng các loại đá quý tự nhiên. Tại sao Tỳ Hưu tạc bằng các loại đá quý tự nhiên thì mới linh? Người Trung Quốc quan niệm rằng chữ Vương có một dấu chấm (.) thành chữ Ngọc, nghĩa là ai dùng ngọc là người vương giả, giàu sang. Do vậy phải tạc bằng ngọc quý thì mới linh nghiệm mà ngọc tự nhiên thì mới quý.


Tỳ Hưu khi đặt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương. Tất nhiên khi đặt bất cứ vật khí phong thuỷ nào, điều cần phải nhớ là: Xem ngày giờ tốt để đặt.

Nếu ở phương vị ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giải sát khí của ngũ hoàng đại sát.

Nếu đeo hoặc mang Tỳ Hưu trên người thì tối kỵ sờ tay hoặc để người khác sờ tay vào mắt, miệng, lưỡi, răng của Tỳ Hưu. Nếu không Tỳ Hưu sẽ bị mờ mắt, mòn răng và do vậy sẽ mang được ít vàng bạc châu báu đến cho gia chủ. Khi đi ngủ chớ quên tháo Tỳ Hưu ra và cất đi, nhất là không bao giờ đeo trong khi quan hệ vợ chồng.

Video chi tiết về hình ảnh Tỳ hưu mạ vàng hút tài lộc, công danh:


Một điều tối kỵ nữa là đem co hoặc tặng Tỳ Hưu mà mình đang đặt trong nhà hoặc đang mang trên người, nếu không thì tài lộc của mình sẽ bị chuyển sang người khác.

Hy vọng với chia sẻ này sẽ giúp các bạn Bài trí Tỳ hưu đúng vị trí trong nhà để mang lại tài lộc cho gia chủ. Trong phần tiếp theo, Karalux sẽ giới thiệu đến các bạn một kiến thức phong thủy khá thú vị nữa, đó là ” Cách khai quang điểm nhãn Tỳ hưu”.


Lưu ý: Hiện nay trên thị trường có khá nhiều cửa hàng rao bán vật phẩm phong thủy, rao bán tỳ hưu và cho rằng được làm từ Ngọc xanh, từ đá Thạch Anh.. nhưng thực tế đó chỉ là nhưng đồ phong thủy có nguồn gốc từ Trung Quốc được làm từ bột đá.  Một lưu ý nữa, khi lựa chọn các đồ vật phong thủy, các bạn nên chọn mua những vật phẩm có nguồn gốc Việt Nam, được chế tác tại Việt Nam,, nên tránh dùng đồ phong thủy có nguồn gốc, xuất xứ không rõ ràng.

Ngoài ra, bạn có thể tìm hiểu thêm cách Khai quang, điểm nhãn Tỳ hưu.


Minh Thắng/Mavang.vn


Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Chùa Một Cột Đôi Nét Về Lịch Sử

Chùa Một Cột được dựng lên trong giai đoạn đầu tiên bắt nguồn từ một giấc mơ. Tương truyền rằng: vào năm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất (1049), vua Lý Thánh Tông nằm chiêm bao thấy Phật Quan Âm hiện ra, cầm tay nhà vua dẫn lên toà sen. Khi tỉnh dậy nhà vua đã đem toàn câu chuyện kể cho triều thần nghe. Có người cho là điềm không lành. Nhà sư Thiền Tuế được nhà vua triệu kiến vào kinh để hiểu thêm ý nghĩa. Nhà sư đã khuyên nên xây chùa ở trên cột đá giữa hồ làm toà sen thờ đức Quan Âm. Khi xây cất xong, nhà vua lại sai lập trai đàn chẩn tế để cầu cho nhà vua được sống lâu. Vì thế có tên là chùa Diên Hựu.


Năm 1105, vua Lý Nhân Tông ban sắc chỉ cho sửa chữa lại toàn bộ ngôi chùa này, trước sân lại còn cho xây thêm một bửu tháp theo mô hình kiến trúc Champa kiểu Po Nagar. Ba năm sau đó, Ỷ Lan Phu Nhân cũng cho đúc một quả chuông rất to, tương truyền là nặng đến một vạn hai nghìn cân. Chuông này có tên là Giác Thế Chung, ngụ ý là tiếng chuông sẽ thức tỉnh người trên cõi đời. Chuông này được liệt vào một trong “Tứ đại khí” trong thời bấy giờ. Nhưng sau khi hoàn thành thì chuông gióng lên không kêu liền cho đem bỏ ngoài ruộng, có nhiều rùa. Chuông có tên là chuông Quy Điền. Năm 1105 vua Lý Nhân Tông ngôi chùa này tu bổ đã cho xây 2 ngọn tháp chỏm trắng. Một số giả thuyết cho rằng chùa trước lớn hơn bây giờ, nhưng không có bằng chứng rõ ràng. Chùa xây trên trụ đá hình bát giác, mỗi cạnh có một khối gỗ chống từ cột lên xà ngang. Từ xà ngang hướng lên phía trên có 8 cột chống.


Quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ XII to lớn, lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chủa Long Đọi (Nam Hà), dựng vào muà thu năm 1121, mười sáu năm sau khi chùa mới hoàn thành, đã cung cấp cho ta hình ảnh chân thực về ngôi chùa Một Cột đời Lý như sau: “Lòng sùng kính đức Phật, dốc lòng mộ đạo nhân quả, hướng về vườn Tây Cấm nổi danh, xây ngôi chùa Diên Hựu. Theo dấu vết chùa cũ, cùng với ý mới của nhà vua (Lý Nhân Tông). Sáng “Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đoá sen nghìn cánh, trên bông sen đứng vững toà điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng nhân đức, vòng quanh hồ là hai dãy hành lang; lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước hai bên tả hữu, xây bảo tháp lưu ly. Hàng tháng, vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hằng năm theo dịp du xuân, nhà vua ngồi xe ngọc, đến chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu dài, bày chậu thau làm lễ mộc dục (tắm Phật). Trang sức pho tượng tinh tế, biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh...”

Qua văn bia mô tả như đoạn trên, cho thấy rõ là Liên Hoa Đào đời nhà Lý to hơn chùa ngày nay gấp bội. Thậm chí ngôi chùa này đời nhà Trần cũng không còn là dáng dấp của đời Lý nữa. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại - năm 1249 - rằng: “Mùa xuân, tháng giêng, đã sửa chữa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ”. Chùa đã qua nhiều đột trùng tu. Đợt sử chữa lớn nhất vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ XVIII (1249) gần như làm lại toàn bộ. Vào đời Lê triều đình cũng nhiều lần cho tu sửa, lại thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá. Năm 1838, tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hoà tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông, cửa tam quan. Năm 1852, bố chính Thất Thất Giao xin đúc chuông mới. Năm 1864, tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu, làm sàn gỗ bát giác để đỡ toà sen, chạm trỗ thêm công phu tráng lệ. Cũng cần nhắc thêm rằng vào năm 1954, trước khi rời khỏi Hà Nội, quân Pháp đã cho đặt mìn phá đổ. Năm 1956, chùa được sửa lại, theo kiểu mẫu cũ để lại đời Nguyễn.

Xem Video hình ảnh chi tiết về Chùa Một Cột mạ vàng:


Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm Trống đồng Đông Sơn.


Minh Thắng/Mavang.vn

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Trống đồng Đông Sơn lịch sử nguồn gốc

Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ năm 1682. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Nam.


Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger. Trước thập niên 1950, một số phân loại khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger.

Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận xung quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại trống..., nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc. Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất.


Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại Trống Đồng Đông Sơnnhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự phân loại của Heger nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại trống Đông Sơn.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống mà có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó đã có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết: "Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng.


Các thay đổi đã được thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến". Quan điểm này tương đồng với sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được cho là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.

Xem Video chi tiết về hình ảnh trống đồng mạ vàng:


Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm Biểu tượng Chùa Một Cột của thủ đô Hà Nội.


Minh Thắng/Mavang.vn

Thứ Hai, 10 tháng 8, 2015

Khuê Văn Các biểu tượng đỉnh cao của Trí Tuệ - Văn hóa Việt

Hà Nội với bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm, hệ thống di tích kiến trúc dày đặc đã chọn cho mình một biểu tượng. Khuê Văn Các là biểu tượng đỉnh cao của trí tuệ, là sự khái quát, sự khẳng định chân lý "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nhìn vào đó, mỗi con người dường như thấy mình cần phải có trách nhiệm trau dồi kiến thức, trí tuệ, văn hóa để gìn giữ, phát huy những giá trị tốt đẹp mà ông cha để lại.




Khuê Văn Các được dựng năm 1805 dưới triều Nguyễn Gia Long, bổ sung vào quần thể kiến trúc Văn Miếu đã có từ thời Lý - Trần - Lê trước đó. Công trình tuy không đồ sộ nhưng tỉ lệ hài hoà, đẹp mắt. Nền hình vuông: 6,80 x 6,80 m, trên đó chỉ có 4 trụ gạch (85 x 85 cm) đỡ kiến trúc tầng hai bằng gỗ, bốn phía có cửa hình tròn lồng trong ô cửa hình vuông với hàng lan can con tiện gọt khắc tinh vi chạy bao quanh. Các con sơn bằng gỗ ở 4 góc đỡ mái ngói ống lợp kiểu "âm - dương", chồng 2 lớp tạo thành 8 mái, nghiêng và phẳng. Kiến trúc nhẹ nhàng, khoáng đạt, rất hoà hợp với phong cảnh thiên nhiên: phía trước có vườn cây, hồ nước "Thiên quang tỉnh", phía sau và 2 cổng phụ hai bên: Bi văn môn và Súc văn môn dẫn vào 2 khu bia tiến sĩ.

Khuê Văn Các là cổng thứ ba của khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, được Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cho xây dựng vào năm 1805. Khuê Văn Các được ví như một viên ngọc trong khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám và gần đây đã được chọn làm biểu tượng của Thủ đô Hà Nội.




Về ý nghĩa các phần kiến trúc và tên đặt của Khuê Văn Các có thể hiểu như sau: Theo Kinh dịch, những con số lẻ (1,3,5,7,9) thuộc về dương, biểu hiện sự sinh sôi nảy nở và phát triển. Khuê Văn Các có 8 mái là bát quái, có thêm một nóc ở trên là 9. Số 9 là cửu trù, số cực dương. “Khuê Văn” theo cách lý giải truyền thống về thiên thể thì Khuê là tên một ngôi sao trong chòm 28 sao sắp xếp giống hình chữ Văn (của chữ Hán). Trong sách Hiếu kinh có ghi: “Khuê chủ văn chương”- tức Khuê tượng trưng cho Văn Chương. Về sau người ta còn coi “Khuê” là người đứng đầu của quan văn.


Khuê Văn Các cùng với hai cửa phụ là Bí Văn và Súc Văn ở bức tường tiếp giáp với khu vực giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ. Bí Văn, với ý nói văn chương trau chuốt sáng sủa, có sức truyền cảm thuyết phục lòng người. Súc Văn, với ý nói văn chương hàm súc phong phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn. Những kiến trúc này xinh xắn, giản dị, tao nhã, cùng với những cây cổ thụ in bóng xuống giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh, còn được gọi là Văn Trì) cũng tạo nên bức tranh đầy ý nghĩa. Thiên quang là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng là có ý rằng con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ để soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Người xưa có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này.


Xem chi tiết video tại: 

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

Trống đồng mạ vàng quà tặng cao cấp cho khách Quốc Tế

Trống đồng không chỉ là một loại nhạc cụ độc đáo mà nó còn là biểu tượng đặc trưng cho quyền lực, tôn giáo… Ngay từ thời xa xưa, trống đồng đã mang một nét tiêu biểu riêng cho văn hóa người Việt cổ.

Trống đồng với hình dáng cân đối, hài hoà đã thể hiện một trình độ rất cao về kỹ năng và nghệ thuật, đặc biệt là những hoa văn phong phú được khắc họa, miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ dựng nước mà người ta vẫn cho là chìm trong đám mây mù của truyền thuyết Việt Nam. Trống đồng đã trở thành quà tặng độc đáo cho người thân đặc biệt là khách Quốc tế.



Trống đồng được coi là biểu tượng quyền lực của các vị thủ lĩnh, những người có thế lực, uy quyền. Căn phòng hay nơi bạn làm việc có bày trí một chiếc trống đồng sẽ làm tôn lên được sức mạnh tiềm tàng trong bạn, toát lên một vẻ hùng mạnh cho không gian làm việc đồng thời thể hiện được tình yêu, lòng biết ơn tới những vị lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt những người làm việc trong lĩnh vực kinh tế thì món quà ý nghĩa hơn cả là chiếc Trống Đồng Mạ Vàng. Nó sẽ làm cho không gian làm việc thêm sang trọng hơn. Đồng thời, những vị khách viếng thăm chắc hẳn sẽ có những cái nhìn đầy ngưỡng mộ với gia chủ.



Trống đồng mạ vàng còn là món quà tặng cao cấp, sang trọng. Theo các nhà phong thủy thì mặt trống đồng hình tròn không những là biểu tượng của dương mà còn là biểu tượng của kim. Thuần dương mà hình tròn thuộc kim, hình trống đồng là hình Madala (tức là miêu tả sự vận động của vũ trụ mang giá trị tinh thần rất cao cấp. Hình tượng và nội dung đều là dương nên trống đồng mang tính cực dương), cho nên trống đồng chỉ sử dụng ở những nhà thực sự có quyền lực. Nó là biểu tượng cho quyền lực trên mọi lĩnh vực (quyền lực trí tuệ, quyền lực ngôn luận, quyền lực hành chánh,…).

Trống đồng mạ vàng là quà tặng độc đáo độc đáo tặng cho người thân hoặc bạn bè nước ngoài. Trống đồng không những làm quà tặng mà còn mang ý nghĩa gửi gắm những thông điệp quảng bá vẻ đẹp văn hóa dân tộc Việt Nam tới bạn bè Quốc tế.


LIÊN HỆ MUA TRỐNG ĐỒNG MẠ VÀNG:

Công ty CP VinaTAB

Hotline: 19006479
Ngoài giờ hành chính: 0903.661.954 / 090.373.6789
Showroom: 93 Xã Đàn, Đống Đa, Hà Nội
Website: http:// mavang.vn / Email: Tuvan@mavang.vn